Lý thuyết Dow là cơ sở Việc trước tiên cho mọi nghiên cứu kỹ thuật trên thị phần. Mặc dầu nó thường bị coi là trễ so với thị trường và bị các người chống đối dựa vào ấy để chỉ trích nhưng nó vẫn được toàn bộ những người có quan tâm đến và tôn trọng. Cha đẻ của lý thuyết Dow chính là Charles H.Dow (1851 – 1902 ).Trong các ghi chép của người Việc trước tiên đề ra lý thuyết này, có cực nhiều điều chứng tỏ rằng tác fake không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ trở thành một công cụ dùng cho dự đoán thị phần chứng khoán hay thậm chí nó đã trở nên một hướng dẫn chung cho các nhà đầu cơ. Những biên chép đấy chỉ đề cập lên rằng ông muốn lý thuyết của mình thành một thước đo biến động chung của thị trường. Sau lúc Dow chết thật, William. P. Hamilton, đã tiếp diễn việc nghiên cứu lý thuyết này, sau 27 năm nghiên cứu và viết các bài báo, ông đã doanh nghiệp và cấu trúc lại thành lý thuyết dow như ngày nay. khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 6 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc 1: Chỉ số bình quân thị trường đề đạt mọi thứ Bởi vì nó phản ảnh các hoạt động có kết liên với nhau của hàng ngàn nhà đầu cơ, gồm cả các người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có các thông báo tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả các gì có thể ảnh hưởng tới cung và cầu của những loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay lúc xảy ra chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào giá của những loại chứng khoán. Tin tức thị thứ đáng đọc, nhưng không nên dựa vào tin tức để vào lệnh vì nó đã phản ánh vào giá hết rồi. Thay Như thế nên, chúng ta nên khai thác tin đó dưới góc nhìn là dữ liệu đầu vào để phân tách cho những tin tức trong khoảng thời gian dài. Nguyên tắc 2: thị phần có ba xu thế chính Dow cho rằng một xu hướng phải có ba cấp: xu hướng chỉnh hay xu thế cơ bản (Primary), thiên hướng trung gian (Secondary) và xu thế nhỏ hay thiên hướng ngắn (minor). xu hướng chính – Primary thiên hướng chính- Primary hay xu thế cấp 1, đây là xu thế quan yếu nhất. Ấy là những biến động tăng cường hoặc giảm với quy mô lớn, thường kéo dài trong một hoặc rộng rãi năm và gây ra sự cải thiện hay giảm đến 20% giá của những cổ phiếu. Trong xu hướng cấp 1, chia ra làm 2 loai: khuynh hướng cấp 1 tăng cường giá ( thị phần con bò tót – Bull market ) và xu hướng cấp 1 giảm giá ( thị trường con gấu – Bear market ). thiên hướng trung gian – secondary xu hướng trung gian – secondary hay xu thế cấp hai, vận động theo xu hướng cấp 1 sẽ bị gián đoạn bởi những bởi sự xen vào của những ngả nghiêng cấp hai theo hướng đối lập – gọi là những bức xúc hay điều chỉnh của thị trường. Thí dụ trong khuynh hướng cấp 1 tăng cường giá, khuynh hướng cấp 2 là các biến động giảm giá của thị phần. Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến phổ quát tháng, thường ngày là 3 tháng. Chúng thường sẽ kéo ngược lại khoảng 1/3 tới 2/3 mức cải thiện (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu hướng cấp 1. Dù rằng đã có các mục tiêu để xác định một khuynh hướng cấp hai nhưng vẫn có những trắc trở trong việc xác định thời khắc hình thành và thời gian còn đó của thiên hướng. thiên hướng nhỏ (Minor) xu thế nhỏ (Minor) hay thiên hướng cấp 3, đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, thường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã đề cập đến, bản thân chúng không thực thụ có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên những xu thế trung gian. Bình thường thì một biến động trung gian dù là một xu hướng cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa 2 xu hướng cấp hai liên tiếp, đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc đa dạng hơn những dao động nhỏ khác nhau. Xu hướng nhỏ là dạng độc nhất trong 3 loại xu hướng có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để ảnh hưởng vào xu thế cấp 1 và hai thì cần các đàm phán với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là không thể. Xem thêm: đòn bẩy forex Nguyên tắc 3: khuynh hướng chính gồm ba giai đoạn Dow tụ hội cốt yếu vào vào các xu hướng chính và ông quan niệm rằng chúng diễn ra theo ba kỳ: kỳ tích lũy (accumulation phase), kỳ xâm nhập vào công chúng (public participation) và công đoạn phân phối (distribution). công đoạn tích lũy: khi mà công chúng nhận thấy thất vọng lúc tham dự vào thị trường chứng khoán, Báo cáo buôn bán của những công ty không tốt, phổ quát chứng khoán được bán ra trên thị trường với tâm lý chán nản của nhà đầu tư thì các nhà đầu tư tinh tường lại nhìn ra tiềm lực của 1 số doanh nghiệp có thể vực dậy và khôi phục mau chóng. Vào cuối công đoạn này, trong hoạt động của tổ chức và trong các biến động trên thị trường đã có các biến chuyển tuy mới chỉ ở mức tránh được, khởi đầu xuất hiện các đợt tăng giá nhỏ. công đoạn tăng giá mạnh: đây là công đoạn lớn mạnh tương đối kiên cố, xảy ra khi các giá thành khởi đầu gia tăng cường một cách mau chóng và các tin tức buôn bán được tăng, doanh nghiệp làm ăn có lãi. công đoạn đầu cơ sôi động: lúc những tin tức kinh tế trở thành tốt hơn, doanh nghiệp liên tục làm ăn sinh lời cao, thị trường chứng khoán trở thành hấp dẫn và nóng hơn bao giờ hết, những nhà đầu tư nhảy vào thị trường một cách ào ạt, chứng khoán được tậu quá nhiều, cầu vượt cung, đẩy giá lên cao nhưng khi này đã có một vài nhà đầu tư sắm ở giai đoạn tích lũy Trước tiên bán ra nhằm chốt lợi nhuận. Trong thị phần giá giảm (Bear Market) cũng có 3 giai đoạn công đoạn phân phối: quá trình này thực sự bắt đầu ở công đoạn cuối của Bull Market trước đó.Những nhà đầu cơ có tầm nhìn xa muốn nhanh chóng thoát khỏi thị phần. Khối lượng mua bán vẫn rất cao, xuất hiện những biểu hiện của khuynh hướng giảm; công chúng vẫn rất “năng động”, bắt đầu có biểu hiện lo âu và không còn nhiều hy vọng kiếm lợi nhuận. công đoạn hoảng loạn: Số lượng các bạn giảm dần và những người bán khởi đầu trở lên vội vã bán đi những chứng khoán mình đang nắm giữ. Xu thế giảm bắt đầu cải thiện mạnh, đồ thị giá tất cả dốc thẳng xuống và KLGD đạt tới mức đỉnh điểm. Sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá. Sau công đoạn hỗn loàn có thể có công đoạn hồi phục hoặc chao đảo ngang biểu lộ tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư, họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua quá trình hỗn loàn trước đó hoặc cũng có thể là các người đã tậu cổ phiếu trong công đoạn đó bởi vì khi đấy giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn không ít so với trước đó vài tháng. Thông tin về những công ty ngày một xấu đi. Chấm dứt công đoạn này mới bước vào quá trình thứ ba. giai đoạn bán bắt buộc: khuynh hướng đi xuống trên thị phần đã yếu dần, nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán phổ thông và liên tục mô tả “nỗi buồn” và sự lo âu của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho các nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm tới mức thấp nhất, thậm chí hầu hết mất hoàn toàn trị giá. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như thường được đàm phán vì các người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cộng. Ở giai đoạn cuối của thị trường giá xuống, cả thị phần chỉ tụ hội vào đàm phán một vài loại cổ phiếu. Thị trường giá xuống chấm dứt với những tin xấu về các tổ chức, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã biểu lộ ra và có thể tới. Xem thêm: mô hình 2 đáy Nguyên tắc 4: các chỉ số trung bình phải củng cố lẫn nhau Dow cho rằng phải có chí ít 2 chỉ số bình quân phải xác nhận một khuynh hướng thì khuynh hướng đấy mới được hình thành. Những tín hiệu công nhận có thể không đồng thời xuất hiện, nhưng khoảng thời gian giữa hai tín hiệu càng ngắn càng cho thấy sự cứng cáp. Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị phần đi xuống Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị phần đi lên như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả hai không cùng xác nhận một sự đảo chiều trong thiên hướng hiện tại của thị trường. Nguyên tắc 5: Khối lượng trao đổi phải công nhận khuynh hướng Dow công nhận khối lượng trao đổi là nguyên tố thuộc vị trí số hai nhưng không kém phần quan yếu trong việc công nhận các dấu hiệu giá. Trong một xu hướng tăng cường, khối lượng mua bán cải thiện lên lúc giá tăng, và khối lượng giao dịch giảm khi giá giảm. Trong một xu thế giảm, khối lượng trao đổi tăng cường khi giá giảm và khối lượng trao đổi giảm khi giá cải thiện. Dow xem khối lượng giao dịch là một chỉ báo có tầm quan yếu thứ 2. Ông Quan sát các tín hiệu tậu và bán hoàn toàn dựa trên giá đóng cửa. Nguyên tắc 6: Một thiên hướng được cho là tiếp diễn cho đến lúc có tín hiệu đảo chiều Một xu thế vẫn đang tiếp diễn cho tới khi có một biểu hiện thực thụ về sự đảo chiều của thiên hướng ấy được xác định. Tức là: khuynh hướng tăng cường giá vẫn còn tồn tại lúc sự tăng cường giá liên tục cho ra các đỉnh cao hơn và sự giảm giá xen vào cấu tạo những đáy cao hơn. Khuynh hướng giảm giá vẫn còn còn đó khi sự giảm giá liên tục tạo ra các đáy thấp hơn và sự tăng cường giá xen vào tạo thành những đỉnh thấp hơn. Đọc thêm các bài viết đánh giá sàn để biết được đâu là sàn ngoại hối uy tín tại Việt Nam và quốc tế.